*** Một góc nhìn thẳng thật về thực trang của Văn hóa Việt ***
Văn hóa vốn là linh hồn của một dân tộc. Thân thể bệnh tật, một phần chính vì tâm linh bất toàn. Thế nên, ta có thể lý luận cho rằng sự trổi vượt hay thua kém của bất cứ một dân tộc nào đều phản ánh nơi văn hóa của họ. Một dân tộc bất khuất hay nhu nhược, thông minh hay ngu độn, nhân đạo hay tàn ác... đều có thể biết được qua chính nền văn hóa. Với một nền văn chương thi ca toàn những câu tâng bốc, những ngôn từ sặc máu, đầy ắp khích động hận thù, ta khó có thể tưởng tượng được dân tộc ấy nhân đạo, cương trực, liêm chính. Với tập quán xôi thịt, với phong tục tranh quyền cố vị, với nền “đạo đức” ăn trên ngồi chốc, xã hội như vậy chỉ có tranh chấp, đấu tranh và tham nhũng, nhưng không thể có tiến bộ. Những nhận xét của nhiều thức gỉa -- từ thời Nam Phong tạp chí, qua thời Tự Lực Văn Đoàn tới thời nay, từ thời Phan Khôi, Vũ Trọng Phụng tới thời Nguyễn Gia Kìểng -- về tính chất tiêu cực của văn hóa Việt hẳn không phải chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhóm trí thức “trưởng gỉa” thích “vạch áo cho người xem lưng.” Làm sao chúng ta có thể giải thích được sự kiện, từ những đống gạch vụn, kẻ bại trận Nhật và Đức đã thành hai cường quốc kinh tế, khoa học và kỹ thuật. Trong khi cũng trên 30 năm hòa bình, tài nguyên giàu hơn Nhât và không kém Đức, người chiến thắng vẫn cầm đèn đỏ trong rất nhiều lĩnh vực. Chúng ta thường đổ lỗi cho ngoại bang. Không chỉ có thế. Nam Hàn, Do Thái, Đài Loan đều bị ngoại bang đe dọa và chi phối. Nhưng họ vẫn phát triển, vẫn giầu. Hay là do chính sách, thể chế sai lầm? Cũng không hẳn như vậy. Ấn Độ có một thể chế dân chủ vào loại nhất Á châu, nhưng vẫn tụt lùi gần như trong mọi lãnh vực khác, ngay cả nhân quyền. Chính sách của Tân Gia Ba (Singapore) chẳng có dân chủ tí nào, nhưng lại làm nước này cường thịnh. Vậy thì, nguyên nhân chính yếu có lẽ là chính văn hóa. Bởi lẽ thể chế, chính sách luôn gắn liền với văn hóa, với lối suy tư. Có phải đó là NỀN VĂN HÓA “NHẪN NHỤC”? Qúa nhẫn nhục đến thành hèn nhát, bất lực! Đầu thế kỷ thứ 20, Lỗ Tấn đã vạch trần mặt trái của một nền văn hóa nhẫn nại, phục tùng, thụ động của Tàu. Vào cuối thế kỷ, biết bao trí thức Việt cũng đã mổ xẻ cái bướu bất trị này trong văn hóa Việt. Có phải đó là nền văn hóa “con rùa” (hay lạc đà)? Nhà Thanh đã làm gì để đối phó với Tây phương? Nhà Nguyễn đã làm gì để chống chọi người Pháp? Bế quan, tỏa cảng! Từ chối giao tiếp, từ chối đối thọai, từ chối tiếp nhận! Sát hại những ai dám tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Để rồi chịu nhục vì bát quốc Liên Minh! Để rồi bị Pháp đô hộ cả gần 100 năm! Đó là tư cách con rùa rụt cổ vào vỏ, con lạc đà chui đầu trong cát. Đó là một nền văn hóa trốn trách nhiệm: trên đổ cho dưới, dưới đổ cho dân ngu cu đen. Đó là nền văn hóa kín cổng cao tường, một nền văn hóa trì trệ. Đó là một nền văn hóa lệ thuộc, thích làm bồi Tây, bồi Mỹ, bồi Nga, vân vân. Một nền văn hóa như vậy, thì cả ngàn năm sau, cho dù bất cứ ai cai trị đi nữa, thì chính thể vẫn thế, chính sách vẫn vậy.
“Sự thật mất lòng” nhưng “thuốc đắng đã tật.” Đã đến lúc mà ta PHẢI TRỰC DIỆN VỚI CHÍNH NỀN VĂN HÓA CỦA MÌNH. Nhận ra khuyết điểm, học hỏi phương thế chữa chạy, đó chính là những bước đầu tất yếu trong công cuộc xây dựng nền văn hóa của mình. Chẳng có gì đáng xấu hổ khi nhận ra sự yếu kém của mình. Chỉ đáng buồn khi chúng ta cứ cố ý tự lừa mình, như con bò tự thổi phồng nó lên. Chỉ đáng sợ nếu chúng ta vẫn chưa bỏ được tâm thức của con ếch nằm dưới đáy giếng nhìn thiên hạ. Chỉ còn trì trệ khi mà ta “không biết mình, cũng chẳng biết người.” Và chỉ còn là cái chết khi mà văn hóa lệ thuộc, nịnh hót, đầu độc làm ta chán ghét, hãi sợ sự thật (trung ngôn nghịch nhĩ) và chạy theo hưởng thụ.
Chúng ta thử hỏi. Cao Bá Quát đã có “công gì với núi sông” cho ngay cả khi ông đã “nắm được ba bồ chữ trong tất cả bốn bồ chữ của thiên hạ”? Thực ra, Cao Bá Quát, Lê Văn Siêu, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương chỉ là đại biểu cho những người chủ trương nền “văn hóa trì trệ” (nói theo nữ sỹ Lê Thị Huệ). Sẽ chẳng bao giờ có tiến bộ ngay cả khi câu khoe khoang “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường” có thật đi nữa. Tại sao cứ phải so mình với người Tầu, người Tây. Tại sao ta không dám nghĩ, dám làm, và dám vượt họ? Với một não trạng “NGẠO MẠN VỚI NGƯỜI MÌNH, TỰ TI VỚI NGƯỜI NGOÀI” như vậy, làm sao mà có tiến bộ. Làm sao mà ta “ngóc đầu” lên được! Tại sao cứ phải đao to búa lớn với bốn ngàn năm văn hiến, với hàng ngàn tiến sĩ khắc trên bia Văn Miếu, khi mà ngay cả một chiếc xe đạp ta cũng không thể tự chế tạo? Chúng ta có hàng vạn thi sĩ, nhưng có mấy ai ảnh hưởng tới cả nhân loại như Dante, Goethe, Shakespear, vân vân? Có phải đại thi hào chỉ là loại thợ thơ ca tụng lãnh tụ (gồm cả lãnh tụ nước Nga, nước Tầu), với sáo ngữ, tuy mỹ lệ nhưng trống rỗng, vô thực? Nếu chỉ có thế thì, nói theo Nguyễn Du, “rằng hay thì thật là hay” nhưng mà “nghe như ngậm đắng nuốt cay thế nào”!
Đã đến lúc chúng ta phải biết THỨC TỈNH, PHÊ BÌNH và HỌC HỎI. Bài học bế quan tỏa cảng của Tàu, bài học nước Đức, nước Mỹ, nuớc Nhật và cả nước Tân Gia Ba (Singapore) là những bài học ta không được phép quên. Ngẫm người lại nghĩ đến ta. Cái gì đã làm người ta thay đổi? Cái gì đã làm họ phát triển? Và cái gì đã làm ta lạc hậu? Tính ngạo mạn từ thời cha ông cho tới ngày nay (tự cho mình cái gì cũng nhất thế giới) đã làm cho nước Tầu “vĩ đại” lẹt đẹt, đã làm bốn ngàn năm văn hiến An Nam lẽo đẽo. Óc tự ti đã khiến ta lệ thuộc vào văn hóa Tầu, rồi Pháp, rồi Nga và, ngày nay, Mỹ. Ta chỉ mong được phần nào giống Tầu, giống Tây, giống Nga, giống Mỹ. Ngược lại, NGƯỜI ĐỨC không thế. Bài học bại trận, bị cưa cắt đất đai, bị phân tán thật chua cay bi đát đã giúp người Đức nhận ra sự thua kém của họ. Chẳng cần tự hào với “bốn ngàn năm văn hiến,” họ đã có thể trở thành đầu óc của nhân loại với những Kant, Hegel, Marx, Einstein, Heisenberg, Beethoven, Brahms, vân vân. Từ một đám dân hỗn tạp, MỸ đã trở thành đại cường quốc trong vòng hai thế kỷ, và dẫn đầu thế giới gần như trong tất cả mọi lãnh vực. Với một nguồn nhiên liệu ít ỏi, tài nguyên hạn hẹp và đầy thiên tai, NHẬT đã làm thế giới khâm phục và khiếp hãi. Gần ta hơn, chỉ với vài ba triệu dân, một mảnh đất nhỏ xíu, với khoảng 40 năm lập quốc, và luôn trong tình trạng bị Mã Lai to lớn đe dọa, Tân Gia Ba (SINGAPORE) đã biến thành một con rồng nhỏ. Lợi tức người dân cao thứ nhì sau Nhật ở châu Á, và được tiếng thơm là sạch sẽ, trật tự và an toàn vào loại nhất thế giới. Chẳng cần phải nói, cái tinh thần làm cho các nước trên tiến bộ, chính là nên văn hóa của họ. Người dân Tân Gia Ba (Singapore) không rêu rao bốn hay năm ngàn năm văn hiến. Họ chỉ cầu tiến. Văn hóa của họ là VĂN HÓA CẦU TIẾN, chứ không phải là văn hóa hoài cổ, nệ cổ và trì trệ. Họ không bắt chước người khác như con vẹt hay con khỉ. Họ học từ Mỹ và Âu châu, không phải để giống như những nước da trắng, nhưng để vượt khỏi chính những nước thầy này. Chỉ riêng về giáo dục, vào thập niên 1990s, họ đã đủ sức tranh đua với Âu Mỹ (Năm 1987, thủ tướng Lý Quang Diệu đã dám tuyên bố là Đại Học Quốc Gia Tân Gia Ba (Singapore) không những không thua, mà còn khá hơn nhiều đại học lớn của Âu châu). Và gân đây, nền giáo dục của nước tí hon nay đã trở thành mẫu mực nhiều nước phải học. Đại học của Tân Gia Ba (Singapore) tranh đua nhiêng ngửa với những đại học thời danh nhất của Anh như Oxford và Cambridge. Ngược lại, đại học tốt nhất của Việt nam vẫn thua xa các đại học Thái Lan tới 15 hay 20 lần (theo Giáo sư Hoàng Tụy trong bài phỏng vấn trên VNExpress, 8.2005).
Học nơi người không phải là tự ti. Học để làm bồi họ (làm thông, làm phán) mới là điều nhục. Học để “sáng sữa bò tối sâm banh,” “để võng anh đi trước, võng nàng theo sau,” để đè nén thiên hạ, vinh thân phì gia “một người làm quan, cả họ được nhờ,” đó chính là cái học ngu dân và nô lệ. Một cái học phản giáo dục. Cái học thật phải là cái học để tự lập, để vươn lên, để hay hơn, để hoàn hảo hơn. Đó chính là cái học vượt khỏi tình trạng trì trệ hiện tại. CÁI HỌC TIẾN BỘ.
Theo FB WeGreen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét